Trong vài năm trở lại đây, các doanh nghiệp logistics Việt Nam đã có sự bứt phá mạnh mẽ và chiếm ưu thế trong nhiều lĩnh vực như vận tải, kho bãi, cầu cảng… Việc các doanh nghiệp nội chiếm thị phần lớn cho thấy sự đầu tư và chiến lược kinh doanh đang đi đúng hướng; đồng thời tạo sự cạnh tranh, thúc đẩy các ngành khác phát triển.
KHI DOANH NGHIỆP NỘI LÀM CHỦ “SÂN NỘI”
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), ngành logistics hiện có hơn 3.000 doanh nghiệp đang hoạt động với mức độ tăng trưởng khoảng 12-14% trong năm.
Ông Lê Duy Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) khẳng định, nhiều năm nay ngành logistics đã tiến bộ rất nhiều, thể hiện rõ nét nhất là qua bảng xếp hạng Chỉ số năng lực mà Ngân hàng Thế giới đánh giá 2 năm 1 lần. Theo kết quả mới nhất mà Ngân hàng Thế giới công bố năm 2018, Việt Nam hiện đang xếp ở vị trí thứ 39/160 (tăng 25 bậc).
“Trước đây người ta vẫn thường hay nhìn nhận “sân chơi” logistics chủ yếu thuộc về doanh nghiệp ngoại bởi chỉ chiếm 5% tổng số doanh nghiệp nhưng họ lại chiếm thị phần nhiều hơn. Tuy nhiên, theo Khảo sát của Viện Nghiên cứu và phát triển logistics Việt Nam (VLI), trong số hơn 3.000 doanh nghiệp logistics thì doanh nghiệp trong nước chiếm 88%, chỉ có 10% là doanh nghiệp liên doanh và 2% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các công ty logistics nội địa cũng là ưu tiên hàng đầu của doanh nghiệp chủ hàng khi có tới 52,8% doanh nghiệp lựa chọn – cho thấy sự tin tưởng vào các nhà cung cấp dịch vụ logistics nội địa. Đặc biệt, trong hầu hết các lĩnh vực về khai thác cảng, kho bãi, vận tải đường bộ nội địa, vận tải đường thủy nội địa… doanh nghiệp nội đang chiếm ưu thế gần như tuyệt đối. Riêng vận tải bằng hàng không và vận đường tải biển doanh nghiệp Việt còn hạn chế do không có hãng hàng không lớn, kinh nghiệm khai thác cảng biển và đơn hàng quốc tế chưa nhiều” – Ông Hiệp phân tích.
Việc doanh nghiệp Việt chiếm ưu thế trong hầu hết các lĩnh vực của logistics đã giúp cho ngành này có sự phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian qua, thể hiện bằng chi phí cho logistics đã giảm đáng kể. Nếu như trước đây chi phí logistics chiếm trên 20% GDP thì đến năm 2018 quy mô dịch vụ thị trường logistics Việt Nam đạt 10 – 11 tỷ USD và còn chiếm khoảng 17% GDP.
TRỢ LỰC CHO DOANH NGHIỆP KINH DOANH, XUẤT KHẨU
VLA đánh giá, các dịch vụ đi kèm đã và đang đáp ứng kịp thời những yêu cầu hết sức đa dạng của thị trường logistics. Các cải cách về thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực được đẩy mạnh đã thúc đẩy xuất khẩu; hình thành nên các chuỗi cung ứng logistics toàn diện từ vận tải, kho bãi, cầu cảng… cho tới các lĩnh vực đóng gói bao bì, lưu kho.
Đơn cử trong lĩnh vực giao nhận, sự phát triển mạnh của các công ty như Giaohangnhanh.vn, Giaohangtietkiem… với hệ thống mạng lưới điểm giao dịch, phương tiện vận chuyển linh hoạt có thể giao và lấy hàng trong 6 giờ đồng hồ đã buộc những đơn vị truyền thống như Công ty Kho vận miền Nam, Vietnam Post buộc phải thay đổi để thích ứng. Theo đó, các doanh nghiệp này đã đa dạng loại hình cung cấp cho đối tác bằng việc nâng cao chất lượng phục vụ, giảm giá vận chuyển và áp dụng công nghệ để khách hàng có thể truy dấu gói hàng khi gửi đi.
Hay trong lĩnh vực cảng biển, theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), hiện nay cả nước có 265 bến cảng/402 cầu cảng với 87.550 m dài cầu cảng, tổng công suất thiết kế khoảng 500-550 triệu tấn hàng/năm. Hầu hết các cảng tổng hợp, đầu mối khu vực cho phép tiếp nhận tàu có trọng tải đến 30.000 – 50.000 DWT và lớn hơn (Cái Mép – Thị Vải tiếp nhận tàu 160.000 – 194.000DWT), tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuận tiện hơn.
Đơn cử cảng Đồng Nai đã có nhiều cải tiến trong hoạt động, ông Nguyễn Ngọc Tuấn – Tổng giám đốc Công ty CP Cảng Đồng Nai (PDN) cho biết: PDN đã hoàn thiện nâng cấp bến tàu B3 từ 15.000 DWT lên 30.000 DWT, đầu tư mới các trang thiết bị kèm theo tại cảng Gò Dầu để đưa vào khai thác từ tháng 12/2018. Ngoài ra, tháng 11/2018 PDN cũng đã tổ chức lễ khởi công công trình mở rộng 50m nối liền cầu cảng số 2 và cầu cảng số 3 tại cảng Long Bình Tân và dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 4/2019. Tất cả nhằm hỗ trợ trung chuyển hàng hóa của doanh nghiệp đến nhà máy trong các khu công nghiệp của tỉnh Đồng Nai và các tỉnh lân cận.
Tân Cảng Sài Gòn cũng cho hay, năm nay sẽ hiện đại hóa các quy trình, thủ tục giao nhận hàng hóa áp dụng các thành tựu 4.0; Tăng hiệu quả khai thác cảng Cát Lái, tăng cường kết nối các cảng trong hệ thống; Tăng cường hợp tác với các khách hàng, đối tác và các cơ quan quản lý nhà nước liên quan… để mang đến dịch vụ tốt cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Đánh giá của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho thấy, năm vừa qua ngành này đã xuất khẩu 9 tỷ USD, kết quả này có được do sự cải thiện tích cực về logistics nội địa, từ hệ thống lưu kho cho tới vận chuyển hàng hóa đã đáp ứng tốt nhu cầu của doanh nghiệp thủy sản.
TRIỂN VỌNG 2019
VLA đánh giá, các dịch vụ đi kèm đã và đang đáp ứng kịp thời những yêu cầu hết sức đa dạng của thị trường logistics. Các cải cách về thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực được đẩy mạnh đã thúc đẩy xuất khẩu; hình thành nên các chuỗi cung ứng logistics toàn diện từ vận tải, kho bãi, cầu cảng… cho tới các lĩnh vực đóng gói bao bì, lưu kho.
Nhìn về triển vọng tương lai, ông Lê Duy Hiệp cho biết, khung pháp lý và chính sách liên quan đến logistics đang dần hoàn thiện. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 200/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động về nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics và Bộ Công Thương cũng có Quyết định số 708/QĐ-BCT phê duyệt Kế hoạch cải thiện chỉ số Hiệu quả Logistics của Việt Nam (gọi tắt là LPI)… Hiện tại VLA đang bám vào những Quyết định này để xây dựng các chiến lược hoạt động như nâng cao công tác đào tạo nhân lực, áp dụng công nghệ trong quản trị logistics… qua đó giúp ngành có sự cạnh tranh tốt hơn.
Theo Bộ Công Thương, hạ tầng logistics bao gồm các trung tâm logistics, trung tâm phân phối, cảng cạn, kho ngoại quan đã gia tăng về số lượng và nâng cấp về công nghệ. Các trung tâm logistics đang chuyển sang ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hàng hóa, theo dõi, truy xuất vị trí. Một số trung tâm logistics chuyên dùng được tự động hóa gần như hoàn toàn. Các trung tâm logistics lớn hiện nay tập trung ở khu vực Hải Phòng, Đồng Nai và Bình Dương.
Bình luận